I. Mô tả giải pháp đã biết:
Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó trong hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ. Hiện nay xã hội phát triển mạnh đồng nghĩa với việc trẻ em đứng trước nhiều mối nguy hiểm. Bởi vậy, cha mẹ thường sợ hãi tìm cách ngăn cấm con trước các rủi ro nhưng lại quên giải thích cho trẻ hiểu nguyên nhân và cách phòng vệ, hậu quả xảy ra. Điều này khiến trẻ dễ thành nạn nhân nếu như không được trang bị kiến thức tự bảo vệ bản thân. Mặt khác, trẻ em luôn hiếu kỳ, tò mò và luôn muốn khám phá những điều mới lạ. Nhưng lại chưa có kỹ năng để thu thập thông tin, phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra với bản thân mình. Dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân giúp trẻ tư duy, phán đoán được những nguy hiểm có thể xảy ra và tìm các tránh xa. Dạy trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có khả năng xử lí tình huống, biết lên tiếng kêu cứu và tìm đến những sự trợ giúp đúng khi cần. Để đảm bảo an toàn cho trẻ, một số giáo viên đã thực hiện các giải pháp để dạy cho trẻ những kiến thức cơ bản về tự bảo vệ bản thân. Tôi thấy những giải pháp đó có những ưu điểm và hạn chế sau:
- Ưu điểm:
- Giải pháp giúp trẻ đã có kiến thức cơ bản về tự bảo vệ bản thân.
- Đa số trẻ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, thông minh có khả năng tiếp thu nhanh.
- Giáo viên trong trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, có tinh thần đoàn kết cao, nhiệt tình, tâm huyết với nghề.
b) Hạn chế:
- Giai đoạn 4-5 tuổi, lứa tuổi luôn hiếu kì, ham thích tò mò, khám phá những điều mới lạ và cũng là lứa tuổi mà trẻ dễ gặp phải nhiều mối nguy hiểm nhất bởi trẻ chưa có kỹ năng để thu thập thông tin, phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra đối với bản thân.
- Giáo viên dạy cho trẻ thông qua trò chuyện lúc đón, trả trẻ, lồng ghép giáo dục vào lúc dạo chơi. Vì vậy thời gian cho trẻ nhận thức, rèn luyện, thực hành về kĩ năng tự bảo vệ bản thân rất ít, trẻ sẽ không hiểu nguyên nhân vì sao phải làm như vậy, mặc khác còn khiến trẻ mau quên những kĩ năng này.
- Giáo viên chủ yếu sử dụng tranh ảnh, video minh họa để lồng ghép giáo dục trẻ, điều này đã hạn chế việc tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện cách xử lý của mình trước những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
II. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
II.1. Nội dung giải pháp mà tác giả đề xuất:
- Tên giải pháp: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4 - 5 tuổi tại trường mầm non”.
- Mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ giải pháp:
+ Kỹ năng tự bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự việc xung quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an toàn”.
+ Nhằm góp phần vào việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ giúp trẻ có kiến thức cơ bản tự bảo vệ mình tránh khỏi những nguy hại đến bản thân, rèn luyện kĩ năng ứng phó với những tình huống nguy hại có thể xảy ra đối với trẻ, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin trong cuộc sống đồng thời góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay.
+ Trang bị kỹ năng để trẻ tự bảo vệ chính mình là hành trang vô cùng cần thiết để giúp trẻ ứng phó với mọi biến đổi trong cuộc sống. Theo Bộ giáo dục và đào tạo thống nhất quan điểm của UNICEF thì kỹ năng bảo vệ bản thân là một nội dung quan trọng trong nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân cần giáo dục trẻ trong các trường Mầm non.
- Nội dung của giải pháp mới: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4 - 5 tuổi tại trường mầm non”. Nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, trẻ nhận biết được những điều tốt thì nên làm, những việc chưa tốt thì không làm, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong cuộc sống.
- Các bước thực hiện giải pháp mới:
* Giải pháp 1: Lựa chọn nội dung giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân vào từng chủ đề cụ thể
Trong thực tế có rất nhiều kỹ năng tự bảo vệ khác nhau, khó có thể liệt kê một cách đầy đủ những kỹ năng con người cần có trong cuộc sống. Tuy nhiên dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ Mẫu giáo nhỡ cùng với các hoạt động đặc thù của trẻ trong trường Mầm non đó là “học mà chơi, chơi mà học” bên cạnh đó dựa vào chương trình giáo dục Mầm non và tình hình cụ thể của trường, lớp vào đầu năm học tôi đã cùng các đồng chí giáo viên trong tổ lên kế hoạch lựa chọn các kỹ năng tự bảo vệ phù hợp với trẻ 4 – 5 tuổi để đưa vào giáo dục trẻ nhằm đạt hiệu quả cao.
STT
|
Chủ đề
|
Kỹ năng tự bảo vệ bản thân
|
Tháng thực hiện
|
1
|
Trường Mầm non
|
Hoạt động: An toàn cho bé
(Kĩ năng chơi an toàn với đồ chơi trong lớp, ngoài trời)
|
Tháng 09
|
2
|
Bản thân
|
Hoạt động: Cơ thể tớ là của tớ
(Không đi theo và nhận quà của người lạ
Tránh bị xâm hại cơ thể)
|
Tháng 10
|
3
|
Gia đình
|
Hoạt động: Nhận biết và phòng tránh những vật gây nguy hiểm
(Không chơi với những đồ vật gây nguy
hiểm, nơi nguy hiểm
Biết kêu người khác giúp đỡ khi bị lạc)
|
Tháng 11
|
4
|
Nghề nghiệp
|
Hoạt động: Bé sử dụng và phòng tránh một số dụng cụ nghề
(Không chơi với 1 số dụng cụ nghề gây
nguy hiểm)
|
Tháng 12
|
5
|
Thực vật - Tết và mùa xuân
|
Hoạt động: An toàn cho bé
(Đảm bảo an toàn, không leo trèo lên cây
Ăn uống vệ sinh trong ngày tết)
|
Tháng 01
|
6
|
Phương tiện giao
thông
|
Hoạt động: Bé với an toàn giao thông
(Biết chấp hành và thực hiện theo quy định của một số biển báo giao thông cơ bản.
Biết cách đội và tháo mũ bảo hiểm)
|
Tháng 02
|
7
|
Động vật
|
Hoạt động: Bé học cách phòng vệ trước những con vật nguy hiểm
(Tránh xa 1 số con vật gây nguy hiểm)
|
Tháng 03
|
8
|
Hiện tượng tự
nhiên
|
Hoạt động: Bé bảo vệ bản thân
(Không chơi những nơi nguy hiểm: ao, hồ, sông, suối...)
|
Tháng 04
|
9
|
Quê hương- đất
nước- Bác Hồ
|
Hoạt động: Du lịch mùa hè
(An toàn khi đi du lịch)
|
Tháng 05
|
Bảng nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân
Thông qua bảng kế hoạch xây dựng các nội dung giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ, tôi đã đưa ra một số kỹ năng cần thiết để giáo dục trẻ trong những hoạt động cụ thể giúp trẻ nhận thức sâu sắc hơn vấn đề, và hình thành kỹ năng ứng phó khi gặp vấn đề nguy hiểm trong quá trình sống của trẻ, các nội dụng được cụ thể hóa, không chồng chéo và được tích hợp vào từng chủ đề quen thuộc xuyên suốt cả năm học. Điều này giúp giáo viên dễ dàng trong việc lên kế hoạch năm học, kế hoạch giáo dục tháng, tuần, kế hoạch ngày và thực hiện giáo dục trẻ một cách có hiệu quả.
* Giải pháp 2: Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kĩ năng cơ bản
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi hầu hết trẻ chưa phân biệt được những gì là nguy hiểm hay không nguy hiểm đối với mình. Chính vì vậy nên việc giúp trẻ phân biệt những mối nguy hiểm luôn được tôi quan tâm, lồng ghép vào để giáo dục trẻ qua hoạt động học, hay hoạt động vui chơi, hoạt động lao động, mọi lúc mọi nơi...Để việc giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ được tốt, tôi đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường xảy ra trong gia đình, trường học như: Ổ điện, quạt điện, bếp ga, phích nước nóng, bàn là…tôi thường tận dụng thời gian đón trẻ, hoặc trong giờ hoạt động chiều để trò chuyện giáo dục trẻ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng ở việc cô nhắc nhở trẻ không được lại gần, không được sử dụng những đồ dùng đó thì trẻ sẽ không hiểu vì sao phải như vậy, trẻ sẽ dễ dàng màu quên. Chính vì vậy tôi đã chủ động đưa các nội dung giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân thành nội dung trọng tâm của một hoạt động học để giáo dục trẻ. Những kỹ năng mà tôi đã áp dụng vào để xây dựng thành hoạt động học như: Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm (dao, kéo, chất tẩy rửa, đinh, ổ điện, nước sôi, bật lửa, kim tiêm, quạt, cách chơi cầu trượt...); dạy trẻ cách đội và tháo mũ bảo hiểm
* Ví dụ 1: Đối với kỹ năng “Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm”, tôi tiến hành dạy trẻ ở chủ đề “ Gia đình” tôi đã xây dựng thành hoạt động học cụ thể như sau:
1. Mục đích, yêu cầu
- Trẻ nhận biết một số đồ dùng gây nguy hiểm và cách phòng tránh.
- Rèn kĩ năng phân biệt hành vi đúng sai, quan sát, ghi nhớ có chủ định.
- Giáo dục trẻ không chơi với đò dung gây nguy hiểm.
2. Chuẩn bị
- Tranh ảnh một số đồ dùng (dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế, ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga, bật lửa)
- Hình ảnh hành vi đúng sai
- Lô tô đồ dùng an toàn, không an toàn
3. Tiến hành
HĐ1: Trò chuyện cùng bé
- Cô và trẻ cùng múa hát bài “Đồ dùng bé yêu”
- Trò chuyện về bài hát.
- Liên hệ giới thiệu bài.
HĐ2: Bé vui khám phá
- Chia lớp làm 02 nhóm để thảo luận:
+ Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế.
+ Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga, bật lửa.
Trẻ thảo luận xong tôi mời đại diện các nhóm lên giới thiệu trình bày những hiểu biết về các đồ dùng, cách xử lý của nhóm mình cho các nhóm còn lại xem. Sau mỗi lần giới thiệu tôi sẽ đăt hệ thống các câu hỏi để cả lớp khám phá:
- Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế.
+ Các con có nhận xét gì về các đồ dùng này?
+ Điều gì sẽ xảy ra nếu các con tự ý dùng dao, kéo?
+ Khi nào thì các con được dùng kéo? Và phải dùng như thế nào?
+ Các con phải làm gì khi chơi gần cạnh bàn, cạnh ghế?...
- Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga.
+ Đối với những đồ dùng này thì các con phải làm sao? (Tránh xa)
+ Vì sao lại phải tránh xa?
+ Điều gì sẽ xảy ra khi các con nghịch ấm nước sôi hay cho tay vào ổ điện?
+ Ai sẽ là người được dùng những đồ vật này?
HĐ3: Bé thông minh
- Trò chơi 1 “Gạch bỏ các hành vi sai”.
- Trò chơi 2 “Chọn đồ chơi an toàn, không an toàn”.
(Hình ảnh 1: Hình ảnh dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm)
* Ví dụ 2: Đối với kỹ năng dạy trẻ đội mũ bảo hiểm đúng cách, đây là một trong những kỹ năng mà tôi cho rằng rất là quan trọng phải chú tâm nhiều, tôi muốn hình thành cho trẻ của mình thói quen chấp hành đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông từ khi còn rất nhỏ đây là một điều đặc biệt cần thiết khi tham gia giao thông để đảm bảo an toàn cho chính bản thân mình.Với kỹ năng này tôi tiến hành dạy trẻ như sau:
1. Mục đích, yêu cầu
- Trẻ biết được đặc điểm, tác dụng của mũ bảo hiểm, biết được khi đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm bảo hiểm, cách đội mũ bảo hiểm đúng cách.
- Có kỹ năng đội mũ bảo hiểm đúng cách.
- Hứng thú tham gia mọi hoạt động của cô, giáo dục trẻ có ý thức đảm bảo khi tham gia giao thông an toàn cho bản thân.
2. Chuẩn bị
- Mũ bảo hiểm của cô. Mỗi trẻ 1 mũ bảo hiểm
- Video clip đi xe không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm không cài quai, bài hát “Lái ô tô”, “ Mũ bảo hiểm em yêu”
- Hình ảnh quy trình đội mũ bảo hiểm
3. Tiến hành
HĐ1: Bé vui ca hát
- Cô và trẻ cùng múa hát bài " Lái ô tô "
+ Khi ngồi trên tàu, xe ô tô chúng mình phải làm gì để đảm bảo ATGT?
+ Khi ngồi xe máy chúng mình phải làm gì để đảm bảo ATGT?
- Cô liên hệ giới thiệu bài.
HĐ2: Mũ bảo hiểm đáng yêu
- Đầu tiên tôi sẽ cho trẻ xem 1 số hình ảnh khi bé ngồi trên xe máy: bé đội mũ bảo hiểm, bé không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, đội mũ bảo hiểm nhưng không cài dây quai, sau đó đàm thoại cùng trẻ:
+ Các con vừa nhìn thấy những gì?
+ Theo các con hành vi nào đúng? Hành vi nào sai khi tham gia giao thông?
+ Vì sao không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, không cài dây quai mũ bảo hiểm là hành vi sai?
- Cho trẻ xem clip đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm không cài quai, cô hỏi:
+ Những người đi xe máy đã thực hiện đúng luật lệ an toàn GT chưa? Vì sao con biết?
+ Đội mũ bảo hiểm không cài quai khi đi xe máy thì điều gì sẽ xảy ra?
+ Để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông các con phải làm gì?
+ Vậy làm thế nào để đội mũ bảo hiểm đúng cách?
- Dạy trẻ đội mũ bảo hiểm: Cô hướng dẫn đội mũ sau đó cho trẻ thực hiện.
- Giáo dục trẻ: Khi các con được người lớn chở đi học, đi chơi các con nhớ phải đội mũ bảo hiểm và phải đội đúng cách để bảo vệ an toan cho bản thân.
HĐ3: Trò chơi luyện tập
- Trò chơi 1: Bé thông minh
Chia lớp thành 3 đội chọn qui trình các bước đội mũ bảo hiểm vào băng cài:
+ Bước 1: Cầm mũ bảo hiểm và xác định phía trước, phía sau của mũ bảo hiểm
+ Bước 2: Lật ngửa mũ bảo hiểm và kéo dây quai sang 2 bên
+ Bước 3: Đội mũ bảo hiểm lên đầu
+ Bước 4: Cài chặt 2 dây quai cho vừa khít với cằm
- Trò chơi 2 “ Trình diễn thời trang mũ bảo hiểm”
(Hình ảnh 2: Hình ảnh dạy trẻ đội mũ bảo hiểm đúng cách)
Đối với các tiết học tôi đã xây dựng, hầu hết việc đưa ra hệ thống câu hỏi trong quá trình tổ chức cho trẻ tìm hiểu được tôi hết sức chú trọng. Các câu hỏi phải thật sự ngắn gọn dễ hiểu đối với trẻ, câu hỏi mang tính gợi mở, giúp trẻ suy nghĩ để trả lời. Đồng thời để tiết dạy mang lại hiệu quả tôi đã sử dụng hình thức làm việc nhóm nhằm giúp trẻ có được sự tự tin mạnh dạn trong quá trình học tập. Sau mỗi bài học tôi thường chọn nhiều trò chơi ôn luyện để giúp trẻ nhớ lâu những kiến thức đã học.
Với giải pháp “Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kĩ năng cơ bản” giúp trẻ được làm việc nhóm, nói lên hiểu biết của bản thân, trẻ sẽ nhận thức, một cách rõ ràng các kĩ năng cần có để bảo vệ bản thân, giúp trẻ rèn luyện, thực hành về kĩ năng tự bảo vệ bản thân.
* Giải pháp 3: Thường xuyên sử dụng các tình huống giả định để dạy trẻ các kỹ năng tự bảo vệ bản thân.
Có rất nhiều tình huống xảy ra có thể đe dọa đến sự an toàn của trẻ, vì thế trẻ cần hiểu được trong tình huống nào thì phải làm gì để tránh sự nguy hiểm. Tôi đã đưa ra nhiều tình huống cụ thể, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, tôi hướng dẫn phân tích, giải thích và cùng trẻ tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Theo các nhà nghiên cứu chỉ rõ: Trẻ hiểu được 10% những gì trẻ nghe; 40% những gì nhìn thấy; 60% những gì trẻ nhắc lại (nói) và khoảng 90% những gì trẻ nói và làm. Chính vậy sau mỗi tình huống mà giáo viên đưa ra, trẻ sẽ được nhập vai và thể hiện cách xử lý trong từng tình huống từ đó trẻ sẽ có biểu tượng về các hành vi chuẩn mực làm giàu vốn sống, vốn kinh nghiệm giúp trẻ biết lựa chọn những hành vi tích cực để áp dụng vào cuộc sống của mình. Tình huống mà giáo viên cần dạy trẻ phải thật gần gũi, thực tế, dễ hiểu phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Sau đây là một số tình huống tôi đã áp dụng.
- Tình huống thứ nhất: Nếu có người lạ cho con bánh, kẹo và rủ con đi chơi thì con làm như thế nào?
Cho trẻ suy nghĩ, đưa ra ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi. Tiếp theo phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là: biết cách từ chối nhưng vẫn thể hiện sự lễ phép, ngoan ngoãn “Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Tôi đặt giả thiết nếu con từ chối nhưng họ vẫn một mực dúi quà vào tay con và có ý lôi kéo con thì lúc đó con làm gì?. Với giả thiết này tôi muốn trẻ có phản ứng thật nhanh như hét to, cấu thật mạnh vào tay người lạ và chạy nhanh đến người thân gần đó hoặc chỗ đông người. Mời trẻ lên đóng vai, một cô giáo khác đóng vai người lạ. Thông qua vai trẻ đóng trẻ sẽ ứng phó với tình huống theo sự hiểu biết của bản thân, từ đó giúp trẻ khắc sâu hơn những kinh nghiệm mà trẻ có được.
(Hình ảnh 3: Hình ảnh không nhận quà của người lạ)
- Tình huống thứ 2: Bị lạc bố mẹ khi đi xem lễ hội, siêu thị, khu vui chơi.
Tôi cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ sẽ đưa ra cách giải quyết của riêng trẻ. Gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm vậy có được không? Tại sao? Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất:
Khi bị lạc bé hãy bình tĩnh, không khóc hay la hét và chạy lung tung mà hãy đứng yên một chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ có thể quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc bé có thể tìm đến những người mặc đồng phục giống nhau có đeo bảng tên, hoặc nhờ bảo vệ, cô bán hàng để giúp đỡ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ.
Tuyệt đối không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ, vì có thể đó là người xấu lợi dụng và sẽ bắt cóc con.
Thường xuyên sử dụng các tình huống giả định để dạy trẻ các kỹ năng tự bảo vệ bản thân, giúp trẻ tự tin xử lý trước những tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của trẻ. Khi đưa ra các tình huống cụ thể đời thật với trẻ đã giúp mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
* Giải pháp 4: Thường xuyên đưa nội dung giáo dục kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể vào dạy cho trẻ
Xâm hại trẻ em là bất kỳ hành động nào có chủ ý và làm tổn thương hoặc gây nguy hại đến trẻ như: Ôm, hôn. Đụng chạm vào vùng kín của trẻ. Xâm hại trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng và lâu dài cả về thể xác và tâm lý đối với nạn nhân. Những hậu quả đó cũng ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Để đảm bảo cho trẻ có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể. Với chủ đề "bản thân" tôi dạy trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ thể, giáo dục trẻ những bộ phận không ai được đụng đến ngoài bố, mẹ, anh chị em trong gia đình, y tá hay bác sỹ khi đi khám bệnh có bố mẹ ở đấy.
Đối với trẻ 4-5 tuổi các cháu chưa thể hiểu được tên gọi các bộ phận thể hiện giới tính, giáo viên cũng không thể sử dụng tên gọi bộ phận sinh dục nam- nữ trong y khoa để nói với trẻ. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng búp bê trai , búp bê gái mặc đồ bơi, những bộ phận cơ thể được đồ bơi che là các bộ phận riêng tư, vùng kín là nơi con nên tôn trọng, giữ gìn vệ sinh không nên để mọi người thấy bộ phận riêng tư của mình và đặc biệt tuyệt đối không cho bất cứ ai động vào cũng như không được đụng chạm vào, bộ phận riêng tư, vùng kín của bất cứ ai, của bất cứ bạn nào trong lớp.
Bên cạnh đó tôi luôn quan tâm đến việc gần gũi, trò chuyện cùng trẻ giúp trẻ chia sẻ cách cháu giữ gìn vệ sinh thân thể vệ sinh bộ phận riêng tư (thường xuyên tắm rửa) cũng như mạnh dạn chia sẻ với cô về những hành động không nên của bạn cùng lớp đối với cơ thể mình (đặc biệt một số hành động của bé trai đối với bé gái khi ở lớp). Điều này trong quá trình giảng dạy đã có rất nhiều giáo viên từng gặp phải, mặc dù người lớn chúng ta thường quan niệm rằng trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, trẻ chưa biết gì. Tuy nhiên với bản thân là một giáo viên cũng là một người mẹ tôi thiết nghĩ, nếu chúng ta không ngăn chặn những hành động này thì vô hình dung giáo viên chúng ta đã giúp trẻ nghĩ rằng hành động xâm hại cơ thể của bạn cùng giới hay khác giới là không có gì sai.
Chính vì vậy song song việc giúp trẻ hiểu về giới tính của bản thân, về vùng riêng tư của trẻ, tôi còn đề ra một số qui định ở lớp như:
- Đi vệ sinh đúng nơi qui định( phòng vệ sinh nam-nữ riêng)
- Bạn trai không được nhìn bạn gái khi đi vệ sinh, khi thay đồ và ngược lại
- Không được nghịch, chơi đùa với bộ phận riêng tư của mình
Ngoài ra, tôi còn dạy trẻ học cách tự bảo vệ bản thân theo quy tắc "Năm ngón tay". Các nội dung trong quy tắc được viết thành bài hát “ Năm ngón tay xinh” do Tổng đài Quốc gia trẻ em phát hành năm 2017. Trong quá trình dạy trẻ tôi thường xuyên sử dụng bài hát này cho trẻ nghe, hiểu và thực hiện một cách nhanh hơn
- Quy tắc 5 ngón tay như sau:
+ Ngón cái - gần mình nhất tượng trưng cho những người thân ruột thịt trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột. Bé có thể ôm hôn những người này hoặc đồng ý để cho thành viên trong gia đình ôm hôn để thể hiện tình yêu, tắm rửa cho bé khi bé còn nhỏ. Nhưng khi đã lớn thì bé sẽ tự tắm và thay quần áo trong phòng.
+ Ngón trỏ - tượng trưng cho thầy cô, bạn bè trong trường, lớp hoặc họ hàng trong gia đình những người này có thể nắm tay hoặc chơi đùa song chỉ dừng lại ở đó nhưng chạm vào "vùng đồ bơi" bé sẽ hét to và gọi mẹ.
+ Ngón giữa - người quen biết nhưng ít khi gặp như hàng xóm bạn bè của chamẹ, những người này bé chỉ cần bắt tay, cười, chào hỏi.
+ Ngón áp út - người quen của gia đình mà bé gặp lần đầu với những người này bé chỉ cần dừng lại ở mức độ vẫy tay chào.
+ Ngón út - ngón tay xa bé nhất thể hiện những người hoàn toàn xa lạ hoặc người có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an đối với những người này bé hoàn toàn có thể bỏ chạy hét to để thông báo với người xung quanh.
(Hình ảnh 4: Quy tắc 5 ngón tay)
Bên cạnh đó tôi xây dựng các bước phòng tránh xâm hại cơ thể giúp trẻ ghi nhớ và thực hiện bằng cách đưa ra tình huống nếu ai đó cố tình nhìn, nói, đụng chạm vào vùng kín của con hoặc yêu cầu con nhìn và đụng chạm vùng kín của họ thì các con sẽ làm gì?
Bước 1: Phản đối nói “Không”, xua tay, cắn thật mạnh tay, vai kẻ xấu
Bước 2: Bỏ chạy (chạy thật nhanh đến nơi đông người, đồng thời hô to để mọi người chú ý đến mình).
Bước 3: Kể lại tất cả câu chuyện mà người xấu đã làm với con với bố mẹ và những người các con tin cậy để người lớn kịp thời can thiệp và bảo vệ các con được an toàn hơn.
Khi đưa nội dung giáo dục kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể vào dạy cho trẻ giúp trẻ tiếp cận với kĩ năng tránh xâm hại cơ thể (xâm hại trẻ em), giáo dục giới tính cũng như những kĩ năng phòng tránh xâm hại. Cung cấp những kỹ năng tự bảo vệ bản thân, kỹ năng xử lý tình huống khi có nguy cơ bị xâm hại, kỹ năng nhận diện kẻ xâm hại.
* Giải pháp 5: Tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân.
Ngoài việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ trên lớp, tôi còn kết hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ nhằm giúp các cháu có được kỹ năng tự bảo vệ tốt nhất, đảm bảo sự an toàn cho trẻ ở trường cũng như ở nhà, ở ngoài xã hội. Những giờ học về kĩ năng sống tôi đều mời phụ huynh tham gia, vừa để lắng nghe, quan sát phản ứng của con mình trước các tình huống vừa có thể tạo điều kiện để phụ huynh gặp gỡ trao đổi với giáo viên về tính cách đặc điểm của con em mình cho giáo viên nắm bắt dễ dàng hơn.
Ngoài ra tôi còn dành thời gian phù hợp trong giờ đón, trả trẻ để trao đổi những thông tin, hoặc cung cấp thông tin cho một số phụ huynh không có điều kiện cập nhật thông tin liên quan đến sự an toàn của trẻ hàng ngày. Một số thông tin có tính thời sự được tôi hết sức lưu tâm, tôi thu thập thông tin quà đài báo in ấn cẩn thận trang trí lên bảng tuyên truyền.
Ngoài ra, tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự lập, tự bảo vệ bản thân, nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lí thì trẻ sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được chứng minh rõ ràng từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân.
Thông qua các cuộc họp đầu năm, cuối kì tôi trao đổi thẳng thắn và đưa ra một số yêu cầu đối với phụ huynh như sau:
- Không để đồ vật, dụng cụ nguy hiểm gần nơi sinh hoạt của trẻ
- Không rời mắt khỏi trẻ khi cho các cháu đến những nơi đông đúc, tuyệt đối không cho trẻ chơi một mình ở những nơi nguy hiểm: ngoài đường, ao, hồ, công trình xây dựng...
- Hạn chế việc nhờ người quen, hàng xóm láng giềng đưa đón trẻ đi học
- Tập cho trẻ gái có thói quen mặc quần lót khi còn bé
- Cha mẹ hạn chế thể hiện tình cảm thái quá đối với con như thường xuyên nựng nịu bộ phận riêng tư của trẻ
- Tuyệt đối không để cho con chứng kiến (nhìn thấy, nghe thấy) vấn đề riêng tư, tế nhị của cha mẹ.
- Gia đình tránh xem phim ảnh mang tính chất bạo lực trước mặt trẻ
- Cha mẹ nên dành nhiều thời gian trò chuyện chia sẻ cùng con, không vội vàng phê phán đúng - sai, luôn tin tưởng vào năng lực của trẻ.
Đối với một số phụ huynh không có thời gian tham gia vào cuộc họp, đặc biệt là những cháu con em của gia đình khó khăn, tôi đã tìm gặp trực tiếp trao đổi thông tin cần thiết đặc biệt là vấn đề phòng tránh xâm hại trẻ, tôi cẩn thận trao gửi một số tài liệu liên quan đến vấn đề này giúp phụ huynh bảo vệ con em mình, và cùng với nhà trường xã hội nâng cao kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
(Hình ảnh 5: Hình ảnh họp phụ huynh)
(Hình ảnh 6: Trao đổi với phụ huynh qua giờ đón, trả trẻ)
Tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Giúp các bậc phụ huynh nắm rõ đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ nhằm giúp các cháu có được kỹ năng tự bảo vệ tốt nhất, đảm bảo sự an toàn cho trẻ ở trường cũng như ở nhà, ở ngoài xã hội.
II.2. Tính mới, tính sáng tạo:
- Tính mới:
+ Giải pháp này, tôi đã mạnh dạn tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ dưới hình thức như một tiết học.
+ Bên cạnh đó việc sử dụng các tình huống giả định được tôi đặc biệt chú trọng, việc thường xuyên đưa ra các tình huống cụ thể đời thật với trẻ đã giúp mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
+ Giáo dục các kĩ năng cơ bản giúp trẻ tiếp cận với kĩ năng tránh xâm hại cơ thể (xâm hại trẻ em), giáo dục giới tính cũng như những kĩ năng phòng tránh xâm hại.
- Tính sáng tạo:
+ Tính sáng tạo được thể hiện trong việc lựa chọn nội dung hoạt động.
+ Còn được thể hiện trong việc lựa chọn hình thức ( làm việc nhóm), cách tổ chức hoạt động.
II.3. Khả năng áp dụng, nhân rộng:
Sáng kiến được áp dụng tại lớp 4 tuổi C1 trường mầm non Tiên Thắng và áp dụng ở các độ tuổi và các trường mầm non khác.
II.4. Hiệu quả, lợi ích thu được áp dụng giải pháp:
1. Hiệu quả về kinh tế:
- Sáng kiến là những biện pháp được áp dụng trong giảng dạy nhằm mục đích rèn kỹ năng sống cho trẻ góp phần đạt được mục tiêu giáo dục mầm non nên không tốn kém về kinh tế.
2. Hiệu quả về mặt xã hội:
- Cộng đồng xã hội, nhà trường và gia đình trẻ đều nhận thức được việc giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân đảm bảo an toàn cho trẻ. Tạo sự tin tưởng, phấn khởi cho phụ huynh và các lực lượng xã hội khác khi thấy con em mình khỏe mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin biết được một số kĩ năng sống đơn giản để bảo vệ chính bản thân trẻ khi gặp nguy hiểm.
PHỤ LỤC